Wiki

Bác Hồ tên thật là gì? Những bút danh, bí danh khác của Bác Hồ

Trong suốt cuộc đời theo con đường cách mạng, Bác Hồ có rất nhiều tên gọi, bí danh và bút danh khác nhau. Vậy Bác Hồ tên thật là gì? Hãy cùng INVERT giải đáp thắc mắc thông qua bài viết sau.

Bác Hồ tên thật là gì?

Bác Hồ - người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam sinh ngày vào ngày 19/5/1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tên khai sinh của Bác là Nguyễn Sinh Cung.

Được biết, gia đình của Bác gồm có 6 người. Cha của Bác Hồ (Nguyễn Sinh Cung) có tên là Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), một nhà Nho từng đỗ Phó bảng, và mẹ là bà Hoàng Thị Loan (1868-1901). Trong nhà, Bác Hồ có một người chị là Nguyễn Thị Thanh (sinh năm 1884), một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (sinh năm 1888, tự Tất Đạt, hay còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai tên là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin) đã mất sớm.

Bác Hồ - người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam có tên khai sinh của Bác là Nguyễn Sinh Cung.
Bác Hồ - người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam có tên khai sinh của Bác là Nguyễn Sinh Cung.

Những tên gọi, bút danh, bí danh khác của Bác Hồ

Không chỉ là người biết nhiều thứ tiếng, Bác Hồ còn khiến cho nhiều người tò mò bởi số lượng tên gọi, bút danh và mật danh khác nhau trong cuộc đời. Bởi vì những thăng trầm của cách mạng, đã buộc Bác phải thay đổi tên nhiều lần, để tránh bị phát hiện bởi địch. Tuy nhiên, số lượng tên chính xác của Bác Hồ vẫn là một ẩn số, một số người cho rằng Bác có 152 cái tên và cũng có những tài liệu chỉ ra Bác Hồ lại có tới hơn 175 cái tên.

Dưới đây là danh sách các tên gọi, bí danh và bút danh được Bác sử dụng phổ biến:

1 Nguyễn Sinh Cung (1890) Là tên khai sinh của Bác Hồ, sinh tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, hiện nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
2 Nguyễn Sinh Côn Là tên còn nhỏ của Bác Hồ được ghi nhận trong một bài viết của Bác năm 1954.
3 Nguyễn Tất Thành (1901) Vào tháng 9 năm 1901, khi cha của Nguyễn Sinh Cung chuyển về sống ở làng Kim Liên, ông tổ chức lễ "chào làng" và đổi tên hai con trai của mình thành Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
4 Nguyễn Văn Thành  
5 Nguyễn Bé Con Theo tài liệu của Tổng đốc Vinh năm 1920 ghi lại con trai thứ của Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Bé Con. Trong tài liệu mật của Pháp ghi lại hoạt động của Nguyễn Ái Quốc năm 1931 cũng đề cập đến tên gọi này, với việc liên kết với bút danh Lý Thụy của Nguyễn Ái Quốc hay Nguyễn Tất Thành.
6 Văn Ba (1911) Vào ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành lên tàu Pháp làm việc và trong sổ lương của tàu, ông được ghi nhận với bút danh là Văn Ba.
7 Paul Tat Thanh (1912) Paul Tat Thanh là bút danh của Nguyễn Tất Thành khi ông sống tại Mỹ. Vào ngày 15 tháng 12 năm 1912, ông đã gửi thư đến khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm kiếm địa chỉ của cha mình, Nguyễn Sinh Huy. Tên Paul Tat Thanh đã được sử dụng trong lá thư này.
8 Tất Thành (1914) Nguyễn Tất Thành, khi đang ở Anh, đã gửi bốn lá thư cho Phan Chu Trinh. Tất cả đều được ký bằng tên Tất Thành, trong đó một lá ký tên Cuồng Điệt Tất Thành và ba lá ký tên C.Đ Tất Thành.
9 Paul Thanh (1915) Vào ngày 16/4/1915, Nguyễn Tất Thành viết thư cho toàn quyền Đông Dương, yêu cầu tìm địa chỉ của cha mình thông qua lãnh sự Anh tại Sài Gòn. Trong thư, ông ký tên là Paul Thanh.
10 Nguyễn Ái Quốc (1919) Khi đang sinh sống tại Pháp, Nguyễn Tất Thành tham gia vào một nhóm gồm các nhân vật có tiếng như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, và Nguyễn An Ninh. Nguyễn Tất Thành là thành viên cuối cùng gia nhập nhóm. Tại đây, ông được gọi là Nguyễn Ái Quốc.
11 Phéc-đi-năng  
12 Albert de Pouvourville (1920) Có đoạn trích từ nhiều tờ báo liên quan đến vấn đề Đông Dương được đăng trên báo Điện Tín Thuộc Địa, với tên đăng ký là Albert de Pouvourville.
13 Nguyễn A.Q.(1921-1926) Theo 2 bài báo ký tên Nguyễn A.Q. có tựa “Hãy Yêu Mến Nước Pháp, Người Bảo Hộ Các Anh.” đăng trên báo Người Tự Do, ngày 7 đến 10/1921. Nguyễn A.Q. còn được ký dưới tranh biếm hoạ ngày 1 tháng 8 năm 1926.
14 Culixe (1922) Nguyễn Ái Quốc sử dụng bút danh này khi viết một bài trên tờ báo L’Humanité vào ngày 18/3/1922.
15 N.A.Q., 1922 Bút danh này được Bác sử dụng trên báo Le Paria và L’Humanité từ 1922-1
16 16. Ng.A.Q., 1922 Bút danh này được Bác sử dụng trên báo Le Paria từ 1922-1925.
17 Henri Tran (1922) Số thẻ đảng viên của Nguyễn Ái Quốc trong Đảng Cộng Sản Pháp là 13861, và tên ghi trên thẻ là Henri Tran.
18 N., 1923 Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh N. trong các năm 1923-1928 trên Le Paria.
19 Chen Vang (1923) Ngày 13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc lén rời Paris đi Liên Xô, đến nước Đức vào ngày 16/6/1923. Tại đây, ông được cơ quan đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết Liên Bang tại Berlin cấp giấy đi đường số 1829 với tên gọi Chen Vang.
20 Nguyễn, 1923 Bút danh này được Bác sử dụng trong các năm 1923, 1924, 1928 trên Le Paria.
21 Chú Nguyễn, 1923 Trong bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi đến các bạn cùng hoạt động tại Pháp trước khi rời Paris đi Liên Sô.
22 Lin (1924) Nguyễn Ái Quốc sử dụng bút danh Lin trong thời gian ở Liên Xô từ 1923 đến 1924 và từ 1934 đến 1939. Tên Lin xuất hiện đầu tiên trong một điện thư gửi Ban Phương Đông của Quốc Tế Cộng Sản, ngày 14/4/1924. Tháng 10/1934, Lin được nhận vào Trường Quốc tế Lenin Liên Xô với số hiệu 375. Năm học 1934-1935, Lin tham gia học tập tại trường này. Tháng 8/1935, Lin dự đại hội lần thứ VII của Quốc Tế Cộng Sản.
23 Ái Quốc (1924) Nguyễn Ái Quốc sử dụng tên Ái Quốc trong thẻ dự đại hội V Quốc Tế Cộng Sản vào tháng 6 năm 1924. Vào tháng 8 năm 1927, ông gửi cho đồng chí Francois Billous một tấm ảnh và ký tên là Ái Quốc. Sau đó, ông còn sử dụng tên này trong một số thư khác.
24 Un Annamite (1924) Bác đã sử dụng bút danh Annamite để viết một bài trên tờ báo Le Paria.
25 Loo Shing Yan, 1924 Ngày 12/11/1924, Nguyễn Ái Quốc viết bài "Thư Từ Trung Quốc, số 1" về phong trào cách mạng Trung Quốc và giác ngộ cách mạng cho phụ nữ Trung Quốc. Bài viết này được gửi tới tạp chí Rabotnhitxa và Nguyễn Ái Quốc ký tên là Loo Shing Yan, một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng. Nguyễn Ái Quốc giải thích rằng việc ký tên này là để bảo vệ danh tính của mình trong hoạt động bất hợp pháp và để làm cho bài viết thêm phong phú và độc đáo.
26 Ông Lu (1924) Ngày 12/11/1924, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho một đồng chí trong Quốc Tế Cộng Sản, thông báo rằng ông Lu đã đến Quảng Châu, Trung Quốc. Địa chỉ liên lạc của ông Lu được ghi là hãng thông tấn Roxta, Quảng Châu, Trung Quốc và Nguyễn Ái Quốc sử dụng địa chỉ này trong nhiều thư khác sau đó.
27 Lý Thụy (1924) Năm 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc sử dụng bí danh Lý Thụy trong khi hoạt động tại Trung Quốc và mang giấy tờ tùy thân với tên này khi đến Quảng Châu. Trong 1 bức thư gửi Quốc Tế Cộng Sản vào ngày 18 tháng 12 cùng năm, Nguyễn Ái Quốc xác nhận rằng anh ta là một người Trung Quốc, tên là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc.
28 Lý An Nam (1924-1925) Trong thời gian hoạt động tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc sử dụng bí danh Lý Thụy và làm phiên dịch tại văn phòng Đoàn cố vấn Sô Viết. Anh cũng được biết đến với biệt danh Lý An Nam.
29 Nilopxki (N.A.Q.) 1924 Vào cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, Trung Quốc và làm việc tại cơ quan của Borodin. Bác đã ký tên Nilopxki trên tất cả 6 lá thư được sưu tầm.
30 Vương (1925) Trong khi làm giảng viên huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc sử dụng tên giả Vương. Đồng thời, cũng dùng bí danh này để liên lạc với Nguyễn Lương Bằng vào năm 1925.
31 L.T. (1925) Ngày 9/4/1925, Nguyễn Ái Quốc ký tên L.T. trong lá thư gửi cho ông H (Thượng Huyền). Sau đó, Bác còn sử dụng bút danh L.T. để viết khoảng 15 bài trên báo Nhân Dân từ các năm 1949, 1957, 1958, 1960.
32 Howang T.S. (1925) Vào ngày 2/5/1925, Nguyễn Ái Quốc sử dụng bút hiệu Howang để viết về đại hội Công nhân và Nông dân.
33 Z.A.C., 1925 Bút hiệu này được Bác đăng trên báo Thanh Niên.
34 Lý Mỗ (1925) Nguyễn Ái Quốc có tên là Lý Mỗ khi gia nhập đội diễn thuyết và xuất hiện trên báo Công Nhân Chi Lộ Đặc Hiệu.
35 Trương Nhược Trừng, 1925  
36 Vương Sơn Nhi, 1925 Bí danh này được viết trên báo Thanh Niên với bút danh Vương Sơn Nhi, Trương Nhược Trừng.
37 Vương Đạt Nhân (1926) Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh này để tham gia đại hội Quốc Dân Đảng Trung Quốc lần thứ 2 và phát biểu ý kiến vào ngày 14 tháng 1 năm 1926.
38 Mộng Liên (1926) Nguyễn Ái Quốc viết dưới bút danh này trên báo Thanh Niên, số 40, ngày 4 tháng 4 năm 1926 với bài viết "Mục Dành Cho Phụ Nữ".
39 X., 1926. Bút danh này được Bác dùng trong các năm 1926, 1927. Theo đó, X. viết loạt bài nhan đề “Các Sự Biến Ở Trung Quốc”, đăng trên 7 số báo L’Annam.
40 H.T., 1926 H.T. là bút danh của Bác viết bài cho báo Thanh Niên. "Còn một số bút danh khác như Hạ Sĩ, Hương Mộng, Diệu Hương,..rất có thể cũng là bút danh của Nguyễn Ái Quốc, bởi lúc đó chưa có nhiều người viết bài cho báo Thanh Niên".
41 Tống Thiệu Tổ (1926) Nguyễn Ái Quốc sử dụng bí danh này trong khi hoạt động tại Quảng Châu, Trung Quốc, theo hồi ký của một số nhân chứng.
42 X.X., 1926 Bác đã dùng ký bút danh này trên một bài đăng trong Inprekorr, số 91, ngày 14 tháng 8 năm 1926.
43 Wang, 1927 Bút danh Wang được đăng trên Thư Tín Quốc Tế (Inprekorr).
44 N.K., 1927 Bác đã dùng ký bút danh này trong Thư Tín Quốc Tế.
45 N. Ái Quốc, 1927  
46 Liwang (1927) Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc ở Berlin đã viết thư đến Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, xin giúp đỡ tiền để về Việt Nam với chi phí khoảng 500 đô la Mỹ. Trong thư, ông cũng đề nghị gửi tiền cho Uỷ Ban Trung Ương của Đảng Cộng Sản Đức và chuyển cho "Liwang".
47 Ông Lai (1927): Trong thư gửi Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, ngày 16 tháng 12 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc chỉ địa chỉ trả lời thư tại Berlin: M. Lai, chez M. Eckshtein, 21, Halle Chactrasse.
48 A.P., 1927 Bút danh A.P. viết bài “Văn Minh Pháp ở Đông Dương” trên Inprekorr.
49 N.A.K., 1928 Bút danh được Bác dùng trong thư gửi Quốc Tế Nông Dân đề ngày 3 tháng 2 năm 1928.
50 Nguyễn Lai (1928) Tại Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc sử dụng tên Nguyễn Lai, một Hoa kiều, để nhập cảnh.
51 Thọ, 1928  
52 Nam Sơn (1928) Tại Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc giới thiệu bản thân là Thọ, biệt danh Nam Sơn, khi gặp người Việt cư ngụ tại đó.
53 Chín (Thầu Chín - 1928) Vào đầu tháng 8/1928, Nguyễn Ái Quốc đến Udon, Thái Lan và sử dụng tên Chín. Khi đó, mọi người gọi ông là Thầu Chín hoặc ông già Chín.
54 Victor Lebon, 1930 Đây là địa chỉ được Nguyễn Ái Quốc ghi lại để nhận thư từ đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế cộng Sản và các đồng chí trong Đảng Cộng Sản Liên Sô. Ngày 27/2 /1930, Bác đã gửi thư cho đại diện Đảng Cộng Sản Pháp tại Quốc Tế Cộng Sản, thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập. Đồng thời, yêu cầu cung cấp tài liệu để tuyên truyền và giáo dục, đề nghị Đảng Cộng Sản Pháp giúp đỡ.
55 Ông Lý (Lee) 1930 Nguyễn Ái Quốc gửi sách báo cho đại diện Đảng Cộng Sản Mỹ với tên và địa chỉ Mr. Lee, The HongKong Shiao Fih Pao, 53, Wyndham Str, HongKong vào ngày 27 tháng 2 năm 1930.
56 Ng. Ái Quốc, 1930  
57 L.M.Vang, 1930 Ngày 27/2/1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho văn phòng đại diện Đảng Cộng Sản Đức tại Quốc Tế Cộng Sản yêu cầu xin cấp giấy chứng nhận phóng viên báo Thế Giới cho mình, với tên L.M. Wang. Bác cho biết rằng, do hoàn cảnh sống của ông bị bất hợp pháp, việc có giấy chứng nhận này sẽ giúp cho ông có một danh nghĩa chính thức khi giao tiếp với người khác.
58 Tiết Nguyệt Lâm, 1930 Bút danh trong thư Nguyễn Ái Quốc xin giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới, ông ghi địa chỉ để nhận là: Mr. Sit-yet-um, Wah-jon C, 136 wanchai R, HongKong.
59 Paul, 1930 Ngày 27/2/1930, Bác viết thư gửi đồng chí Sota, liên đoàn chống đế quốc tại Berlin, thông báo về việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được thành lập. Thư ký tên Paul. Trong một số thư khác cũng được ký tên Paul.
60 T.V. Wang, 1930 Ngày 2/3/1930, Nguyễn Ái Quốc viết thư báo cáo tình hình Mã Lai và Đông Dương, đồng thời đề nghị mua hối phiếu của công ty xe lửa tốc hành Mỹ để tên là T.V. Wang.
61 Công Nhân, 1930 Công Nhân là bút danh Nguyễn Ái Quốc sử dụng trong bài viết "Tranh Thủ Quần Chúng Như Thế Nào?" trên báo Vô Sản số 1, ra ngày 31/8/1930.
 
62 Victo, 1930 Victo là bí danh trong bức thư gửi Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản về cuộc đấu tranh của nông dân các tỉnh Thanh Chương, Hưng Nguyên và Nghệ An, từ ngày 11 đến 17 tháng 9 năm 1930.
63 V., 1931 V. là bí danh trong bài "Nghệ Tỉnh Đỏ" và báo cáo về chỉ thị tổ chức Đảng Cộng Sản Đông Dương, gửi cho Ban Phương Đông vào ngày 8/2/1931.
64 K., 1931 Ngày 21/2/1931, Nguyễn Ái Quốc viết thư ký tên K. báo tin về việc Lý Tự Trọng bị bắn chết và đề nghị Ban Phương Đông liên lạc với Đảng Cộng Sản Pháp tổ chức biểu tình đòi thả Lý Tự Trọng.
65 Đông Dương (1931) Nguyễn Ái Quốc sử dụng bút danh Tống Văn Sơ trong bài viết “Kỷ Niệm Một Năm Khởi Nghĩa Yên Bái” trên Tạp Chí Thư Tín Quốc Tế, 1931, số 12.
66 Quac E. Wen, 1931  
67 K.V., 1931 Bác sử dụng bí danh K.V. từ năm 1931, được đề cập trong thư gửi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương. Thư này thông báo việc các cán bộ được cử về nước và yêu cầu duy trì bí mật, giữ chế độ báo cáo giữa Đảng Cộng Sản Đông Dương với Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1959, K.V. đã viết bài "Người Cháu Nuôi của Bác" đăng trên báo Nhân Dân.
68 Lão Trịnh, 1931 Trong báo cáo của cơ quan an ninh Pháp, Nguyễn Ái Quốc được ghi nhận dưới các tên gọi như Lý Thụy, Vương Sơn Nhi, Lão Trịnh, Năm, Lý Phát, Viên, Tống Văn Sơ. Thời điểm bị bắt ở Hongkong được ghi là ngày 6 tháng 6 năm 1931.
69 Năm, 1931  
70 Lý Phát, 1931  
71 Viên, 1931  
72 Tống Văn Sơ (1931) Khi bị bắt ở số 186, phố Tam Lung, Hongkong, ngày 6 tháng 6 năm 1931, Nguyễn Ái Quốc sử dụng tên Tống Văn Sơ trong thẻ căn cước của mình. Đó là thời điểm khi chiến dịch truy đuổi cộng sản được Pháp và Anh phát động trên quy mô lớn khắp Đông Nam Á.
73 New Man, 1933 Người gửi tên bí danh "New Man" cho luật sư Lôdơbi để cứu Tống Văn Sơ khỏi nhà tù ở Hongkong.
74 Linov, 1934 Nguyễn Ái Quốc đến Viện Nghiên cứu các vấn đề thuộc địa trong năm học 1934-1935 và sử dụng tên bí danh "Linov".
75 Teng Man Huon, 1935 Nguyễn Ái Quốc dùng tên bí danh "Teng Man Huon" trong khi tham dự đại hội lần thứ 7 Quốc Tế Cộng Sản vào tháng 8 năm 1935.
76 Hồ Quang, 1938 Nguyễn Ái Quốc sử dụng tên giả là "Hồ Quang" trong khi hoạt động ở Trung Quốc vào cuối năm 1938.
77 P.C. Lin (P.C. Line), 1938 Nguyễn Ái Quốc viết hàng chục bài trên báo Notre Voix dưới các tên bí danh khác nhau, bao gồm "P.C. Lin", "P.C. Line" và "Line".
78 D.C. Lin, 1939 Nguyễn Ái Quốc sử dụng tên giả "D.C. Lin" trong khi viết bài cho báo Dân Chúng xuất bản tại Sài Gòn.
79 Lâm Tam Xuyên, 1939 Nguyễn Ái Quốc viết thư từ Quế Lâm, Trung Quốc với tên giả "Lâm Tam Xuyên".
80 Ông Trần, 1940 Nguyễn Ái Quốc dùng bút danh "Ông Trần" để liên lạc với tổ chức cộng sản Việt Nam ở Vân Nam, Trung Quốc.
81 Bình Sơn, 1940 Nguyễn Ái Quốc sử dụng tên giả "Bình Sơn" khi viết 12 bài cho tờ báo Cứu Vong Nhật Báo (Trung Quốc) từ tháng 11 đến tháng 12 năm 1940.
82 Đi Đông Tên này được Nguyễn Ái Quốc kể lại trong bài báo "Đồng Chí Đi Đông" đăng trên tờ báo Cứu Quốc.
83 Cúng Sáu Sán, 1941 Người dân tại Pác Bó gọi Nguyễn Ái Quốc là "Cúng Sáu Sán" (Ông già ở rừng).
84 Già Thu (1941) Trong hang Pắc Bó, cán bộ gọi Nguyễn Ái Quốc là Già Thu.
85 Kim Oanh, 1941 Kim Oanh là bút danh của Nguyễn Ái Quốc trong bài thơ "Phụ Nữ" đăng trên báo Việt Nam Độc Lập số 104 ngày 1/9/1941. Bài viết này tôn vinh những nữ anh hùng của Việt Nam, từ Bà Trưng, Bà Triệu đến Nguyễn Thị Minh Khai và kêu gọi chị em phụ nữ cần đoàn kết để đấu tranh.
86 Bé Con, 1941 Bé Con là bút danh được Nguyễn Ái Quốc sử dụng trong bài thơ "Trẻ Con" đăng trên báo Việt Nam Độc Lập số 106 ngày 21/9/1941.
87 Ông Cụ, 1941 Trong thời kỳ 1940-1945, cán bộ cộng sản thường gọi Nguyễn Ái Quốc bằng tên gọi Ông Cụ.
88 Hoàng Quốc Tuấn, 1941 Tên Hoàng Quốc Tuấn được các đồng chí của Nguyễn Ái Quốc tự đặt.
89 Bác (1941) Tên gọi “Bác” được đặt từ hội nghị Trung Ương lần thứ 8 vào tháng 5 năm 1941 tại Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng.
90 Thu Sơn, 1942 Thu Sơn, 1942. Vào tháng 1/1942, với bí danh Thu Sơn, Bác chuyển đến nhà Xích Thắng tức Dương Mạc Thạch tại châu Nguyên Bình, Cao Bằng trong một số ngày.
91 Xung Phong (1942) Nguyễn Ái Quốc sử dụng bút danh này cho hai bài thơ "Tặng Thống Chế Pê Tanh" và "Nhóm Lửa" trên tạp chí Việt Nam Độc Lập số 131 ngày 11/7/1942 và số 133 ngày 1/8/1942.
92 Hồ Chí Minh (1942) Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Hồ Chí Minh để tránh bị phát hiện khi hoạt động ở Trung Quốc. Ngày 13/8/1942, Bác đến Trung Quốc và sau đó bị bắt tại Túc Vinh vào ngày 27/8/1942. Khi kiểm tra giấy tờ, phát hiện thẻ hội viên của Hồ Chí Minh thuộc "Hội Ký giả Thanh niên Trung Quốc", ông bị phe Tưởng Giới Thạch nghi ngờ là gián điệp cộng sản và bị giam giữ trong 13 huyện thị của tỉnh Quảng Tây. Sau đó, ngày 10/9/1943, Hồ Chí Minh được thả.
93 Hy Sinh, 1942 Hồ Chí Minh sử dụng bút hiệu Hy Sinh để viết bài thơ "Chơi Giăng", được đăng trên báo Việt Nam Độc Lập, số 134, ngày 21 tháng 8 năm 1942.
94 Cụ Hoàng, 1945 Hồ Chí Minh đến Côn Minh vào cuối tháng 2 năm 1945, với mục đích tìm kiếm sự hỗ trợ từ Mỹ chống lại chế độ phát xít. Tại Bixichai, ông được giới thiệu là "Cụ Hoàng", đây là tên công khai trên giấy tờ của ông khi giao tiếp.
95 C.M.Hồ, 1945 Hồ Chí Minh sử dụng chữ ký C.M. Hồ trong thư gửi ông Fenn và ông Tam vào tháng 7 và tháng 8 năm 1945.
96 Chiến Thắng (1945) Hồ Chí Minh sử dụng bút danh này cho bài viết trên tạp chí Cứu Quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh và viết khoảng 400 bài trên đó. Bút danh Đ.X. được sử dụng nhiều nhất.
97 Ông Ké (1945) Hồ Chí Minh được giới thiệu là "đồng chí Ông Ké" tại nhà của đồng chí Hoàng Đức Triều ở Pác Tẻng. Hồ Chí Minh thường họp với nhiều đồng chí khác dưới bí danh Ông Ké.
98 Hồ Chủ Tịch (1945) Hồ Chí Minh sử dụng tên này sau khi tuyên bố thành lập "Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà".
99 Hồ, 1945 Hồ Chí Minh ký tên là "Hồ" trong các thư gửi ông Becna và Fenn để cảm ơn về sự giúp đỡ cho lớp vô tuyến điện và yêu cầu chuyển gói quà của đồng minh đến nhanh nhất.
100 Q.T., 1945 Hồ Chí Minh sử dụng bút hiệu Q.T. để viết 10 bài đăng trên báo Cứu Quốc trong các năm 1945-1946.
101 Q.Th., 1945 Với bút hiệu Q.Th., Hồ Chí Minh viết 14 bài đăng trên báo Cứu Quốc trong các năm 1945-1946. Bài đầu tiên ông ký tên Q.Th. là "Thế giới với Việt Nam", được đăng trên báo số 130 ngày 31 tháng 12 năm 1945.
102 Lucius, 1945 Tên mật Lucius được tổ chức OSS đặt cho Hồ Chí Minh trong thời gian ông làm việc cho cơ quan tình báo của Hoa Kỳ.
103 Bác Hồ (1946) Hồ Chí Minh được gọi là "Bác Hồ" bởi nhiều thư ký và quần chúng, trong sách báo và học đường.
104 H.C.M., 1946 Bí danh này được ký dưới thư gửi cho đồng chí của Hồ Chí Minh là Morixo Tore, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Pháp, năm 1946.
105 Đ.H., 1946 Bút danh này Bác viết tập “Nhật Ký Hành Trình của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Bốn Tháng Sang Pháp”, năm 1946.
106 Xuân (1946) Hồ Chí Minh sử dụng bí danh này trong các giấy tờ giao dịch khi nghỉ tại nhà ông Hoàng Văn Nguyên. Trú ngụ tại xóm Đồi, xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ từ ngày 4 đến 18/3/1947.
107 Một Người Việt Nam, 1946 Hồ Chí Minh sử dụng bút danh "Một Người Việt Nam" để ký tên dưới bài viết "Hoa Việt Thân Thiện" vào tháng 12 năm 1946.
108 Tân Sinh, 1947 "Tân Sinh" là bút danh mà Hồ Chí Minh sử dụng trong một số tác phẩm viết vào năm 1947-1948, bao gồm "Đời Sống Mới", "Nêu Cao và Thực Hành Cần Kiệm Liêm Chính Tức Là Nhen Lửa Cho Đời Sống Mới," và "Việt Bắc Anh Dũng."
109 Anh, 1947 Vào ngày 20 tháng 8 năm 1947, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho ông Nguyễn Khánh Toàn với tư cách là "Anh."
110 X.Y.Z., 1947 Hồ Chí Minh sử dụng bút danh "X.Y.Z." trong các cuốn sách viết về "xây dựng Đảng" từ năm 1947 đến 1950, bắt đầu với cuốn sách "Sửa Đổi Lối Làm Việc" vào tháng 10 năm 1947. Ngoài ra, ông cũng sử dụng bút danh này để viết bài cho báo Sự Thật trong các năm 1948-1950, bao gồm bài "Dân Vận" xuất bản trên số báo 120 vào ngày 15 tháng 10 năm 1949.
111 A., 1947 "A." là mật danh mà Hồ Chí Minh sử dụng trong bức thư gửi đồng chí Hoàng Hữu Nam vào năm 1947.
112 A.G., 1947 Hồ Chí Minh sử dụng bút danh "A.G." để viết bài trong các năm 1947-1050, bắt đầu bằng bài "Cán Bộ Tốt và Cán Bộ Xoàng" trên báo Sự Thật, số 77 năm 1947.
113 Z., 1947 Theo nhật ký của ông Lê Văn Hiến khi làm bộ trưởng tài chánh vào năm 1947, mật danh "Z." là của Hồ Chí Minh.
114 Lê Quyết Thắng, 1948 "Lê Quyết Thắng" là bút hiệu được Hồ Chí Minh sử dụng để đăng bài "Cần Kiệm Liêm Chính" trên báo Cứu Quốc vào ngày 30, 31 tháng 5 và 1,2 tháng 6 năm 1949. Sau đó, bài viết được in thành sách.
115 K.T., 1948 Vào tháng 2 năm 1948, Hồ Chí Minh sử dụng bút danh "K.T." để dịch hai bài thơ chữ Hán.
116 K.Đ., 1948 Ngày 2/5/1948, Hồ Chí Minh sử dụng bí danh K.Đ. để viết thư gửi đồng chí Hoàng Quốc Việt về việc ra báo vào tháng 5. K.Đ. viết bài thơ với danh nghĩa đội trưởng dân quân du kích Mán và đề nghị đăng bài thơ này chung với thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu nhằm tuyên truyền.
117 G., 1949 G. vào năm 1949 đã viết một bài mỉa mai bà Tống Mỹ Linh trong bài "Thêu Gấm và Cho Than" được đăng trên báo Sự Thật. Ngoài ra, Bác cũng viết bài "Bệnh Khẩu Hiệu" trên báo Cứu Quốc vào ngày 15 tháng 3 năm 1949, số 1191, nhấn mạnh tầm quan trọng của khẩu hiệu trong công tác tuyên truyền và cổ động. Tuy nhiên, Bác cũng đề cao rằng không nên sử dụng quá nhiều khẩu hiệu khó hiểu, dài dòng, và không thiết thực.
118 Trần Thắng Lợi (1949) Hồ Chí Minh sử dụng bút danh này cho bài viết "Đảng Ta" trên Tạp Chí Sinh Hoạt Nội Bộ số 13, tháng 1 năm 1949.
119 Trần Lực (1949) Hồ Chí Minh sử dụng bút danh Trần Lực trong các năm 1949-1958 và 1961.
120 H.G., 1949 Bút danh H.G., được sử dụng năm 1949 trên báo Cứu Quốc, cho bài viết "Trở Lại Vấn Đề Thi Đua Ái Quốc" ngày 8/7/1949.
121 Lê Nhân, 1949 Bút danh Lê Nhân, được sử dụng năm 1949 trên báo Sự Thật, cho bài viết "Thất Bại và Thành Công" trong chương mục "Sửa Đổi Lối Làm Việc".
122 T.T., 1949 Bút danh T.T., được sử dụng năm 1949 cho bài viết "Hồ Chủ Tịch và Văn Nghệ".
123 Đanh, 1950 Bút danh Đanh, được sử dụng trong các năm 1950, 1953, cho các bài viết "Thư Ký Mặt Trận Liên Việt Địa Phương" và các bài khác.
124 Đinh, 1950 Bí danh Đinh, được sử dụng năm 1950 cho thư gửi Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và gửi thư cho Đặng Đỉnh Siêu bên Trung Cộng, Trần Canh.
125 T.L., 1950 Bút danh T.L., được sử dụng trong thời gian từ 1950 đến 1969, qua gần 250 bài báo đăng trên Sự Thật, Nhân Dân.
126 Chí Minh, 1950 Tên Chí Minh, được sử dụng năm 1950 khi Hồ Chí Minh viết một điện thư chia buồn dòng họ Nguyễn Sinh.
127 127. CB., 1951 Bút danh CB., được sử dụng từ năm 1951 đến năm 1957, qua gần 700 bài báo đăng trên Nhân Dân, bao gồm "Người Đảng Viên Lao Động Việt Nam Phải Như Thế Nào" và "Liên Sô Vĩ Đại".
128 H., 1951 Tên H., được sử dụng năm 1951 cho thư gửi ông Xuphanuvong (Lào) bằng tiếng Pháp.
129 Đ.X., 1951 Bút danh Đ.X., được sử dụng từ năm 1951 đến năm 1955, cho các bài đăng trên báo Cứu Quốc.
130 V.K., 1951 Bút danh V.K., được sử dụng trong các năm 1951, 1960 và 1961, bao gồm "Bệnh Cá Nhân Địa Vị" đăng trên Nhân Dân, ngày 9 tháng 8 năm 1951 và "Về Sự Lục Đục của Mỹ và Diệm" đăng trên Nhân Dân, số 2818, ngày 9/8/1951.
131 Nhân Dân, 1951 Bài "Chúc Mừng Ngày Kỷ Niệm Lần Thứ 34 Cách Mạng Tháng Mười" của Nhân Dân trên báo Nhân Dân ngày 5/11/1951 được viết bởi bút danh Nhân Dân. Bài "Nhân Dân Việt Nam Chúc Mừng Ngày Kỷ Niệm Đảng Cộng Sản Trung Quốc" đăng trên Nhân Dân ngày 1-3/7/1954.
132 N.T., 1951 Bài "Phát Ngôn của Chính Phủ Nhân Tiếp Các Nhà Báo" được viết bởi Hồ Chí Minh với bút danh N.T. và đăng trên báo Người Tiếp Thị ngày 22/12/1951.
133 Nguyễn Du Kích, 1951 Cuốn sách "Tỉnh Uỷ Bí Mật" được viết bởi Hồ Chí Minh dưới bút danh Nguyễn Du Kích và dựa trên chuyện của Liên Sô vào năm 1951.
134 Nguyên, 1953 Bút danh Nguyên được Hồ Chí Minh dùng trong bài "Thư Từ Việt Nam – Những Con Voi là Những Con Muỗi" gửi đăng báo Temps Nouveaux (Thời Mới, Liên Xô) tháng 3 năm 1953 và trong thư gửi chú Thận (Trường Chinh) có ký tên Nguyên.
135 Hồng Liên, 1953 Hồ Chí Minh dùng bút danh phụ nữ Hồng Liên để viết bài "Nhân Dịp Đại Hội Phụ Nữ Quốc Tế" đăng trên báo Cứu Quốc số 2362 ngày 19/6/1953.
136 Nguyễn Thao Lược, 1954 Bài "Đẩy Mạnh Phong Trào Du Kích" được viết bởi Hồ Chí Minh dưới bút danh Nguyễn Thao Lược và đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 16 - 20/1/1954. Tác giả khẳng định "biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng."
137 Lê, 1954 Hồ Chí Minh sử dụng bút danh Lê để viết bức thư ngỏ gửi Thủ tướng Pháp Mangdet Phorangxo trên báo Nhân Dân số 284 ngày 9/12/1954.
138 Tân Trào (1954) Hồ Chí Minh sử dụng bút danh Tân Trào khi ký tên dưới bài viết "Giải Phóng Đài Loan" trên báo Nhân Dân số 218, ngày 25-27 tháng 8 năm 1954.
139 H.B., 1955 Bác dùng bút danh H.B. viết bài “Có Phê Bình Phải Biết Tự Phê Bình”, đăng trên Nhân Dân, số 488, ngày 4 tháng 7 năm 1955.
140 Nguyễn Tâm (1957) Bài viết "Quyển Nhật Ký Trong Ngục của Bác" được viết bởi Nguyễn Tâm, bút danh của Hồ Chí Minh, để kỷ niệm sinh nhật của ông vào ngày 19 tháng 5 năm 1957.
141 K.C., 1957 Năm 1957 và 1958, Hồ Chí Minh dùng bút hiệu K.C. để viết 4 bài báo về việc Mỹ phóng vệ tinh nhân tạo.
142 Chiến Sỹ, 1958 Từ 1958 đến 1968, Bác dùng bút hiệu Chiến Sỹ để viết hơn 80 bài báo trên Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân. Đa số các bài viết của ông chỉ trích Mỹ và ca ngợi các anh hùng như Lý Tự Trọng.
143 T., 1958 Hồ Chí Minh dùng bút danh T. để viết bài “Phong Trào Vệ Sinh Yêu Nước Đang Sôi Nổi tại Trung Quốc” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 29 tháng 1 năm 1958. Bài viết này tả lại tình hình phong trào vệ sinh ở Trung Quốc.
144 Thu Giang (1959) Trên báo Nhân Dân, ngày 12 tháng 4 năm 1959, Hồ Chí Minh sử dụng bút danh Thu Giang để ký tên dưới bài viết "Bác Đến Thăm Côn Minh".
145 Nguyên Hảo Studiant, 1959 Bác dùng bí danh này để viết thư gửi giáo sư Ivan Duycel (Bungari) vào ngày 10/04/1959.
146 Ph.K.A., 1959 Hồ Chí Minh dùng bút danh này để viết bài “Cuộc Nghỉ Hè 2 Vạn 3 Nghìn Cây Số” đăng trên báo Nhân Dân, số 2038, ngày 15 tháng 10 năm 1959 về chuyến đi thăm và nghỉ hè tại Trung Cộng và Liên Xô.
147 C.K., 1960 Bác Hồ dùng bút danh này để viết bài “Bắt Đầu Hai Chữ” đăng trên báo Nhân Dân, ngày 14 tháng 1 năm 1960, về hạnh cần kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
148 Tuyết Lan, 1960.  
149 Jean Fort, 1960 Bác dùng bút hiệu Tuyết Lan để viết bài “Ba Chai Rượu Sâm Banh” đăng trên báo Nhân Dân, số 2331, ngày 27 tháng 4 năm 1960. Bài viết dựa trên bức thư của một công nhân tên là Jean Fort ở Algérie, gửi cho tác giả nói về tình cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời ký ở Paris và những năm sau đó.
150 Trần Lam, 1960 Trần Lam viết bài “Chuyện Giả Mà Có Thật” đăng trên báo Nhân Dân, số 2242, ngày 9/5/1960. Bác đã dùng bút danh này để viết bài về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Thái Lan.
151 Một người Việt kiều ở Pháp về, 1960 Bác dùng tên này ký dưới bài viết “Vài Mẩu Chuyện Trong Hồi Bác Sang Thăm Pháp.”
152 K.K.T., 1960 Hồ Chí Minh dùng bút danh này để viết bài “Tinh Thần Yêu Nước và Tinh Thần Quốc Tế.”
153 T.Lan, 1961 Bút danh T. Lan được Hồ Chí Minh dùng trong tác phẩm “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện Một Mình”, đăng nhiều lần trên báo Nhân Dân, tháng 5, 7, 8 năm 1961. Bài báo khác có tiêu đề “Bác Ăn Tết Với Chú.
154 Luật sư Th. Lam, 1961 Hồ Chí Minh viết bài "Kính Hỏi Uỷ Ban Quốc Tế Giám Sát và Kiểm Sát" trên báo Nhân Dân, ngày 5 tháng 8 năm 1961, liên quan đến hiệp định Geneve.
155 Ly, 1961 Hồ Chí Minh sử dụng bút danh Ly gửi bức thư đề ngày 13 tháng 12 năm 1961 đến đồng chí Ai Dit, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Indonesia.
156 Lê Thanh Long, 1963 Bút danh này được Bác viết bài "Nhân Dịp Mừng Đảng 33 tuổi" đăng trên báo Nhân Dân, ngày 4/2/1963. Bác viết về Đảng Lao Động Việt Nam và sự giúp đỡ của các Đảng anh em đối với Đảng Lao Động Việt Nam.
157 CH-KOPP (Alabama), 1963 Bút danh này của Bác Hồ viết bài "Chó Mỹ Da Trắng Cắn Mỹ Da Đen" đăng trên Nhân Dân, ngày 30 tháng 4 năm 1963.
158 Than Lan, 1963 Hồ Chí Minh dùng bút danh này viết bài "Đại Hội Phụ Nữ Quốc Tế" đăng trên báo Nhân Dân, số 3377, ngày 26/6/1963. Bài viết về buổi họp phụ nữ tại Moscow.
159 Ng. Văn Trung, 1963 Bác sử dụng bút danh này để viết bài "Phải Chăng Rồng Lấy Nước" vào tháng 6 năm 1963.
160 Ngô Tâm, 1963 Vào ngày 7 tháng 9 năm 1963, Hồ Chí Minh viết thư gửi Lê Duẩn, ký tên là Ngô Tâm.
161 Nguyễn Kim, 1963 Năm 1963, Hồ Chí Minh viết bài "Thư Bạn Đọc" trên báo Nhân Dân dưới bút danh Nguyễn Kim.
162 Dân Việt, 1964 Năm 1964, Hồ Chí Minh dùng bút hiệu Dân Việt viết bài "Thư Ngỏ Gửi Ngài Ngoại Trưởng Anh Cát Lợi" trên báo Nhân Dân.
163 Đinh Văn Hảo, 1964 Bút danh Đinh Văn Hảo được Hồ Chí Minh dùng để viết thư gửi chủ bút báo Tân Việt Hoa vào ngày 2 tháng 5 năm 1964.
164 C.S., 1964 Năm 1964, Hồ Chí Minh sử dụng bút hiệu C.S. để viết bài "Chó Mỹ" đăng trên báo Nhân Dân.
165 Lê Nông, 1964 Bút danh Lê Nông được Hồ Chí Minh dùng trong giai đoạn từ 1964 đến 1966, trong đó có bài "Một Mẫu Tây Gặt Được 13 Tấn Thóc" đăng trên Nhân Dân từ ngày 15 đến 18 tháng 9 năm 1964.
166 L.K., 1964 Hồ Chí Minh dùng bút danh L.K. để viết bài "Báo Chí Anh Lột Trần Âm Mưu của Mỹ ở Việt Nam".
167 K.O., 1965 Năm 1965, Hồ Chí Minh dùng bút danh K.O. để viết bài "Người Mới Việc Mới" đăng trên báo Nhân Dân. Bài viết này về gương người làm việc tốt được Bác Hồ thưởng huy hiệu.
168 Lê Ba, 1966 Bút danh Lê Ba được Hồ Chí Minh dùng để viết thư "Trả Lời Ông Men Xphin Thượng Nghị Sĩ Mỹ" đăng trên Nhân Dân, số 4407, ngày 30 tháng 4 năm 1966. Bài viết này kêu gọi Hoa Kỳ ngưng chiến tại Việt Nam.
169 La Lập, 1966 Hồ Chí Minh dùng bút danh La Lập để viết bài "Tổng Giôn Phạm Tội Ác Tày Trời" đăng trên Nhân Dân, số 4508, ngày 10 tháng 8 năm 1966.
170 Nói Thật, 1966 Bút danh "Nói Thật" được Hồ Chí Minh dùng để viết 4 bài báo đăng trên báo Nhân Dân trong năm 1966.
171 Chiến Đấu, 1967 Trong thời gian Hồ Chí Minh điều trị ở Trung Quốc, ông viết hai bài báo với bút danh Chiến Đấu. Một bài có tiêu đề "Thắng lợi lớn của Trung Quốc và Việt Nam" được đăng trên Nhân Dân, số 4823, ngày 24 tháng 6 năm 1967.
172 B., 1968 Vào ngày 10 tháng 3 năm 1968, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Lê Duẩn, ký tên là B. Nội dung thư liên quan đến chuyến đi thăm miền Nam của ông. Trong những năm 60, bí danh B. cũng được sử dụng để gửi thư cho các đồng chí trong Bộ Chính trị.
173 Việt Hồng, 1968 Hồ Chí Minh đã ký bút danh Việt Hồng để viết bài "Kể chuyện về các chủ nghĩa Mác đường tình" được đăng trên Nhân Dân, số 5137, ngày 5 tháng 5 năm 1968.
174 Đinh Nhất, 1968 Vào tháng 5 năm 1964, Hồ Chí Minh đã sử dụng bí danh Đinh Nhất khi đi đến Côn Minh. Ông cũng đã sử dụng bí danh này khi viết thư cho Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu vào ngày 25 tháng 5 năm 1968.
175 Trần Dân Tiên Các nhà nghiên cứu và sưu tầm gần đây cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể đã sử dụng bí danh hoặc bút danh Trần Dân Tiên, nhưng vẫn chưa rõ được thời điểm và bối cảnh cụ thể.

Ý nghĩa của tên gọi Hồ Chí Minh

Bí danh Hồ Chí Minh ban đầu được sử dụng để đánh lừa khi hoạt động tại Trung Quốc. Vào ngày 13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc quay trở lại Trung Quốc dưới danh nghĩa đại diện của Việt Minh và Hội Quốc tế phản xâm lược Việt Nam. Bác sử dụng tên Hồ Chí Minh lần đầu tiên trong giấy tờ cá nhân. Sau đó, Bác bị bắt giữ và giam giữ hơn một năm bởi chính quyền Quốc dân Đảng. Đặc biệt, tập thơ "Nhật ký trong tù" được viết trong thời gian này. Từ đó, cái tên Hồ Chí Minh được sử dụng thường xuyên hơn.

Lý do sử dụng danh xưng Hồ Chí Minh đơn giản là vì Bác rất am hiểu văn hóa Trung Quốc và thông thạo tiếng Trung. Trong đó chữ "Hồ" có nghĩa là "râu" với hàm ý chỉ người lớn tuổi, để chỉ sự giản dị, gần gũi và tránh được sự theo dõi của mật thám.

Ngoài ra, Bác chọn danh xưng Hồ Chí Minh cũng để thể hiện sự giản dị và quyết tâm của người dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Tên gọi này cũng thể hiện ý chí và tinh thần của Bác đi theo con đường cách mạng vô sản chân chính.

Qua những thông tin ở trên, hy vọng bài viết giúp bạn giải đáp được thắc mắc Bác Hồ tên thật là gì. Đồng thời, biết thêm được nhiều bút danh, bí danh khác trong suốt cuộc đời làm cách mạng của Bác.

Còn bao nhiêu ngày nữa đến Tết Giáp Thìn 2024? Đếm ngược Tết 2024

Nguồn: Invert.vn

Đồng Phục Trang Anh

Gửi bình luận của bạn

(*) yêu cầu nhập

Nội dung bình luận (*)
Họ tên
Email
Dự Án Tại TP. Hồ Chí Minh